Ghi nhận và bảo vệ tốt hơn các quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự; góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhằm giúp cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và toàn thể nhân dân trên địa bàn huyện Tứ Kỳ hiểu biết và nắm rõ thêm những quy định pháp luật về thừa kế. Phòng Tư pháp huyện Tứ Kỳ xin được giới thiệu một số quy định của pháp luật về thừa kế trong Bộ luật Dân sự bằng những câu hỏi, ví dụ cụ thể sau:
I.Lịch sử phát triển của pháp luật thừa kế Việt Nam :
1) Pháp luật thừa kế của chế độ phong kiến Việt Nam và thời kỳ Pháp thuộc
Trong bộ luật Hồng Đức có quy định các con (con trai, con gái, con nuôi) đều có quyền thừa kế của cha mẹ. Mọi người đều có quyền để lại hương hoả cho con cháu. Điều 390 quy định : “Cha mẹ làm chúc thư phân chia tài sản, thiết lập hương hoả trong chúc thư”. Còn bộ luật của Gia Long không thừa nhần quyền thừa kế của con gái mà chú trọng đến quyền lợi của con trai. Vấn đề thừa kế theo di chúc đã được đề cập đến như Điều 388 quy định: “Nếu có mệnh lệnh của cha mẹ, phải theo đúng. Vi phạm điều này sẽ mất phần của mình”. Xét về mặt nội dung,các quy định về thừa kế trong luật Hồng Đức và Gia Long tương đối chặt chẽ và đầy đủ.
Thời kỳ Pháp thuộc, ở Việt Nam áp dụng các bộ luật sau : Dân luật Bắc Kì 1931 và Hoàng Việt Trung kì hộ luật 1936. Trong các bộ luật này đều có các quy định về thừa kế theo di chúc và theo pháp luật.
2) Giai đoạn từ năm 1945 đến 1959
Sau cách mạng Tháng 8 năm 1945 Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Ngày 22/5/1950 Hồ Chủ tịch đã ký sắc lệnh 97/SL về việc sửa đổi một số quy lệ và chế định trong luật dân luật, quy định một số nguyên tắc mới để áp dụng trong điều kiện của nền dân chủ nước ta. Riêng trong lĩnh vực thừa kế đã quy định vựo chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau; con trai, con gái đều có quyền thừa kế di sản của cha mẹ; chồng goá, vợ goá, các con đã thanh niên có quyền xin chia di sản; con, cháu hoặc vợ goá, chồng goá không bắt buộc phải nhận thừa kế của người đã chết; các chủ nợ của người đã chết không có quyền đòi người thừa kế phải thanh toán nợ quá phần di sản mà người đó nhận được.
3) Giai đoạn từ 1959-1980
Hiến pháp năm 1959 đã công nhận vấn đề thừa kế thành nguyên tắc, Điều 19 quy định : “Nhà nước chiếu theo pháp luật, bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân”. Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: “Các con đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong gia đình và trong việc hưởng thừa kế, không phân biệt con trai, con gái, con ngoài giá thú, con đẻ, con nuôi”… Toà án nhân dân tối cao ra nhiều Thông tư hướng dẫn. Thông tư Số 549 NCPL ngày 27/8/1968 hướng dẫn đường lối xét xử các việc tranh chấp về thừa kế; Thông tư Số 02 TATC ngày 02/8/1973 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế di sản liệt sĩ…
4) Giai đoạn từ 1980 đến nay
Hiến pháp năm 1980, Điều 27 ghi nhận: “Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân”. Để phục vụ cho công tác xét sử, Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư 81 ngày 24/7/1981 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế (Di sản thừa kế, thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật, phân chia di sản thừa kế,…). Luật hôn nhân và gia đình ban hành năm 1986 đã quy định một số điều liên quan đến quyền thừa kế của vợ, chồng (Điều 14, Điều 16, Điều 17…). Ngày 30/8/1990, Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã thông qua Pháp lệnh thừa kế. Thừa kế được quy định tại phần thứ tư Bộ Luật Dân sự năm 1995 đã kế thừa hầu hết các quy định của Pháp lệnh về thừa kế 1990. Ngoài ra có bổ sung một số vấn đè mới trong lĩnh vực thừa kế, đặc biệt là việc thừa kế quyền sử dụng đất của cá nhân và thành viên của hộ gia đình. Phần thứ tư Bộ luật Dân sự năm 2005 về cơ bản vẫn giữ nguyên như trong quy định Bộ luật Dân sự năm 1995 và có một số thay đổi nhỏ để khắc phục sự cố vướng mắc không phù hợp với thực tế trong quá trình giải quyết tranh chấp về thừa kế trong thời gian qua.
I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ
Câu hỏi 1: Tôi là cán bộ đã nghỉ hưu được hơn 10 năm. Nay tuổi cao không biết chết lúc nào, vậy xin hỏi tôi có quyền lập di chúc để lại tài sản cho các con không?
Trả lời:
Tại Điều 609 Bộ Luật Dân sự năm 2015 về quyền thừa kế có quy định:
- Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
- Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.
Ngoài ra Điều 610 quy định quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân: Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Như vậy, theo các quy định nêu trên ông có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho các con.
Câu hỏi 2: Ngày 02 tháng 01 năm 2017, bà B yêu cầu Tòa án nhân dân huyện C tuyên bố ông Nguyễn Văn A là đã chết (bà B là vợ ông Nguyễn Văn A). Khi Tòa tuyên bố ông A đã chết, toàn bộ tài sản của ông A được chia cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật. Vậy trong trường hợp này thời điểm và địa điểm mở thừa kế được quy định của pháp luật như thế nào?
Trả lời:
* Thời diểm mở thừa kế:
Tại Khoản 1 Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.
Khoản 2 Điều 71 quy định: Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết, căn cứ vào các trường hợp sau:
- Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
- Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
- Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
- Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.
Như vậy, thời điểm mở thừa kế trong trường hợp trên là ngày Tòa án tuyên bố ông A là đã chết căn cứ vào các quy định nêu trên.
* Địa điểm mở thừa kế:
Khoản 2 Điều 611 Bộ Luật dân sự quy định: Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.
Như vậy, địa điểm mở thừa kế của ông A là nơi cư trú cuối cùng của ông A; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng của ông A thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản của ông A.
Câu hỏi 3: Năm 2000, khi anh A và chị B kết hôn, chị B được mẹ đẻ cho riêng 1 ô tô và 01 sổ tiết kiệm trị giá 500 triệu đồng làm của hồi môn. Sau gần 10 năm chung sống, vợ chồng anh A chị B đã mua được nhà mới và nhiều tài sản có giá trị khác. Đến năm 2019, sau thời gian điều trị bệnh chị B không khỏi, chị B chết. Xin hỏi di sản chị B để lại được xác định như thế nào?
Trả lời:
Điều 612 Bộ Luật Dân sự quy định: Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Cũng theo quy định tại Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì vợ chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
Điều 38, 39, 40 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; Hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Đồ dùng, tư trang cá nhân vợ chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.
Như vậy, đối chiếu với các quy định nêu trên có thể xác định di sản của chị B để lại gồm những tài sản sau: Xe ô tô, sổ tiết kiệm 500 triệu đồng nếu chị chưa nhập hai tài sản này vào tài sản chung của vợ chồng và phần tài sản có trong tài sản chung với anh A là nhà và nhiều tài sản có giá trị khác (về cơ bản phần tài sản chung của anh A và chị B sẽ được chia đôi, có tính đến công sức đóng góp của từng người trong việc tạo lập tài sản này).
Câu hỏi 4: Quyền sử dụng đất được coi là di sản thừa kế trong những trường hợp nào?
Trả lời:
Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với đất) mà người đó đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987 -1993 -2003 -2013 thì quyền sử dụng đất đó là di sản
Trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các giấy tờ sau đây thì kể từ ngày 01/7/2014 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế. Điều 100 Luật Đất đai quy định về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất như sau:
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất;
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
đ) Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật;
e) Giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất;
g) Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
3. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, văn bản công nhận kết quả hòa giải thành, quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.
4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp Giấy chứng nhận thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.
5. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ; đất nông nghiệp quy định tại khoản 3 Điều 131 của Luật này và đất đó không có tranh chấp, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Tóm lại, đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng đủ điều kiện để cấp theo quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành luật. Ngoài ra, trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ nêu trên nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, tường xây làm hàng rào...) các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, ... hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây ăn quả, ... gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế thì cần phân biệt các trường hợp sau:
- Trong trường hợp đương sự có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp nhưng chưa kịp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với đất và quyền sử dụng đất đó
- Trong trường hợp đương sự không có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp nhưng có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy định và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất thì Tòa án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với đất, đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để UBND cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Trong trường hợp UBND cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất đó thì Tòa án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.
Câu hỏi 5: Chị B đang mang thai con thứ 2 thì anh A chồng chị chết. Vậy cháu bé chị B đang mang thai có thuộc diện người thừa kế của anh A không?
Trả lời:
Theo Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Như vậy, cháu bé chị B đang mang thai cũng là người thừa kế của anh A nếu cháu được sinh ra và còn sống.
Câu hỏi 6: Năm 2000, ông A có vay của ông B 50 triệu đồng để kinh doanh, năm 2005 ông A chết. Khi ông A chết chưa trả tiền cho ông B. Ông A chết không để lại di chúc. Vậy hỏi khi tiến hành chia thừa kế thì khoản nợ này có được coi là di sản thừa kế không? Việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại sẽ được tiến hành như thế nào?
Trả lời:
Điều 612 Bộ luật Dân sự quy định:
Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Điều 615 Bộ Luật Dân sự quy định:
1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
Như vậy, nếu trước khi ông A chết, ông A có nợ ông B 50 triệu đồng thì khoản nợ này không được coi là di sản thừa kế của ông A mà đó là nghĩa vụ trả nợ ông A chưa thực hiện được trước khi chết. Nếu ông A có tài sản khác để lại thì số tài sản đó sẽ được dùng để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ông B theo quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 615.
Câu hỏi 7: Vợ chồng ông A bà B trước khi chết có để lại di chúc chỉ định cho con là anh C là người quản lý di sản khi các anh, chị ở xa chưa về để thực hiện chia thừa kế. Vậy, anh C là người quản lý di sản có quyền và nghĩa vụ gì?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 617 Bộ luật Dân sự, anh C (người quản lý di sản theo di chúc) có nghĩa vụ sau đây:
- Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
- Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;
- Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;
- Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
- Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.
Quyền anh C được hưởng quy định tại Khoản 1 Điều 618 Bộ luật Dân sự như sau:
- Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;
- Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
- Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
Câu hỏi 8: Trước khi cha, mẹ mất có để lại di chúc chia đều tài sản cho 02 người con. Người em gái nghĩ mình là phận gái đã đi lấy chồng còn anh trai sẽ là người thờ cúng hương khói cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ lại không có điều kiện kinh tế dư dả nên cô em gái từ chối nhận di sản được chia. Vậy pháp luật có quy định gì về việc này?
Trả lời:
Dự định của em gái xuất phát từ tình cảm tốt đẹp trong cuộc sống gia đình, hoàn toàn phù hợp với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc nên cô em có quyền từ chối nhận di sản và nhượng lại cho anh trai theo quy định tại Điều 620 Bộ luật Dân sự năm 2015 về việc từ chối nhận di sản như sau:
- Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
- Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
- Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.
Câu hỏi 9: Hai cha con ông A và anh B bị tai nạn, cùng chết 1 thời điểm. Vậy việc thừa kế di sản của ông A và anh B được xác định như thế nào?
Trả lời:
Theo Điều 619 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định:
Trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước (sau đây gọi chung là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 652 của Bộ luật này.
Điều 652 Bộ luật Dân sự quy định:
Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
Câu hỏi 10: Pháp luật quy định những đối tượng nào không được hưởng di sản?
Trả lời:
Điều 621 Bộ Luật Dân sự quy định:
1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
Điều 622 quy định: Tài sản không có người nhận thừa kế
Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước.
Câu hỏi 11: Năm 2019, trước khi qua đời bà B mới nói cho con gái là chị C biết về cha đẻ của mình là ông A. Sau khi lo việc cho mẹ xong, chị C theo địa chỉ đi tìm cha và được biết cha chị đã qua đời vài năm trước (năm 2015). Vậy chị C muốn xác nhận quyền thừa kế của mình có được không?
Trả lời:
Tính từ thời điểm cha chị C chết (năm 2015) đến hiện tại là năm 2020 là 5 năm. Chị C vẫn có quyền yêu cầu xác nhận quyền thừa kế vì theo quy định tại Điều 623 về Thời hiệu thừa kế thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm ông A chết).
Nếu những người con khác của ông A tranh chấp không thừa nhận chị C là con của cha mình thì chị C phải khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận chị là con của ông A. Sau khi Tòa án có phán quyết công nhận chị C là con của ông A thì chị C mới có quyền khởi kiện chia thừa kế.
II. THỪA KẾ THEO DI CHÚC
Câu hỏi 12: Năm 2000, ông A chết có để lại di chúc chia đều tài sản nhà đất cho các con. Tuy nhiên do người con út điều kiện còn khó khăn nên những người đồng thừa kế thỏa thuận chưa chia nhà đất mà để cho người con út sử dụng đến khi mua được nhà. Đến năm 2018, người con út đã mua được nhà, vậy việc chia di sản được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Điều 624 quy định: Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Theo thỏa thuận của các con ông A (là người được ông A để lại di chúc) sau khi người con út đã mua được nhà ở, không còn nhu cầu sử dụng nhà, đất là tài sản do ông A để lại (di sản thừa kế) thì các con ông có quyền yêu cầu chia thừa kế theo di chúc mà ông A để lại.
Câu hỏi 13: Các quy định về điều kiện của Người lập di chúc là gì?
Trả lời:
Tại Điều 625 và điểm a khoản 1 Điều 630 về người lập di chúc có quy định như sau:
- Người thành niên, minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
Câu hỏi 14: Ông A là con trưởng trong gia đình nên có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên, ông bà. Nay ông tuổi đã cao nên định lập di chúc chia tài sản cho các con, còn ngôi nhà đang ở dành riêng cho việc thờ cúng và là nơi con cháu ông tụ họp sau này. Hỏi pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này?
Trả lời:
Điều 626 Bộ luật dân sự có quy định về quyền của người lập di chúc như sau:
1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Như vậy, đối chiếu với các quy định nêu trên ông A hoàn toàn có quyền dành 1 phần tài sản là ngôi nhà đang ở cho việc thờ cúng và là nơi con cháu tụ họp.
Câu hỏi 15: Cụ A năm nay đã trên 80 tuổi, muốn chia tài sản riêng của cụ cho con nhưng cụ không biết chữ vậy cụ di chúc bằng miệng có được không?
Trả lời:
Vấn đề này được Bộ luật Dân sự quy định tại Điều 629 về di chúc miệng như sau:
- Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
- Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.
Khoản 3, 5 Điều 630 cũng quy định:
- Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
- Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Do đó, để di chúc miệng là hợp pháp cụ A có thể nhờ 02 người làm chứng cho việc lập di chúc và tiến hành các thủ tục pháp lý nêu trên. Tuy nhiên để làm chứng cho việc lập di chúc người làm chứng không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 632 như sau:
- Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
- Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Câu hỏi 16: Do bị bệnh ông A không thể viết di chúc được nên ông A nhờ người khác viết, vậy cần phải có những điều kiện gì để bản di chúc đó hợp pháp?
Trả lời:
Để bản di chúc được coi là hợp pháp thì khi lập di chúc phải đảm bảo đầy đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 630 Bộ luật Dân sự:
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
- Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
Tại Điều 634 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Vậy để bản di chúc nhờ người khác viết là hợp pháp thì ông A phải nhờ ít nhất là hai người làm chứng. Khi bản di chúc viết xong ông A phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của ông A và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này.
Điều 631. Nội dung của di chúc
1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản.
2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội dung khác.
3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.
Điều 632. Người làm chứng cho việc lập di chúc
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Câu hỏi 17: Ông A muốn lập di chúc tại UBND xã có được không? Thủ tục như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 636 Bộ luật Dân sự:
Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:
- Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
- Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.
Do vậy, ông A có thể đến UBND xã tuyên bố nội dung di chúc trước người có thẩm quyền chứng thực của UBND xã, sau đó ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện ý chí của mình.
Câu hỏi 18: Có loại di chúc nào không cần công chứng, chứng thực mà vẫn có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực không?
Trả lời:
Điều 638 Bộ luật Dân sự có quy định: Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực gồm:
- Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực.
- Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó.
- Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó.
- Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị.
- Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó.
- Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.
Câu hỏi 19: Năm 2010, ông A lập di chúc chia đôi mảnh đất cho 02 con là anh T và Đ. Thời điểm này anh T có 01 con trai và 02 con gái. Năm 2013, anh Đ có thêm 01 cháu trai nên ông A sửa lại di chúc để cháu trai cũng có phần đất thừa kế. Vậy hỏi việc làm của ông A có được pháp luật thừa nhận không?
Trả lời:
Theo Điều 640 Bộ luật Dân sự quy định về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc như sau:
- Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào.
- Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
- Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ.
Vì vậy, ông A có quyền sửa lại di chúc mà mình đã làm trước đó.
Câu hỏi 20: Anh A là người có uy tín trong dòng họ nên được ông B khi già yếu đã viết di chúc và nhờ anh A giữ di chúc. Vậy pháp luật có quy định như thế nào về người giữ bản di chúc?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 641 về gửi giữ di chúc:
Khoản 1 quy định: Người lập di chúc có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc. Do vậy, anh A có thể được ông B tin tưởng giữ bản di chúc, nghĩa vụ của anh A như sau:
- Giữ bí mật nội dung di chúc;
- Giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc;
- Giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của ít nhất hai người làm chứng.
Câu hỏi 21: Khi chia di sản thừa kế các con của ông A phát hiện cha mình để lại 3 bản di chúc: 01 bản năm 2000, 01 bản năm 2005; 01 bản năm 2007. Vậy bản di chúc nào được coi là căn cứ để chia di sản thừa kế?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 5 Điều 643 quy định: Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.
Như vậy, theo quy định thì bản di chúc năm 2007 là bản di chúc có hiệu lực và được sử dụng để chia di sản thừa kế.
Câu hỏi 22: Năm 2010, vợ chồng ông A bà B cùng lập di chúc chung. Tháng 5 năm 2015, ông A chết các con của ông đòi chia di sản thừa kế nhưng bà B không đồng ý. Vậy bà B không đồng ý là đúng hay sai?
Trả lời:
Theo quy định của pháp luật có thể xác định thời hạn của chia di sản là sau khi đồng chủ sở hữu cuối cùng chết hoặc tại thời điểm tất cả đồng chủ sở hữu cùng chết. Do vậy, tháng 5/2015, ông A chết vẫn chưa phải là thời điểm mở thời kế theo di chúc chung của vợ chồng ông A bà B. Trong trường hợp này, thời điểm mở thừa kế là thời điểm bà B chết. Vì vậy, bà B không đồng ý chia di sản là đúng.
Câu hỏi 23: Trước khi qua đời ông A có lập di chúc để lại 1 phần đất đai, nhà cửa vào việc thờ cúng của dòng họ và giao cho con trai trưởng quản lý. Nhưng anh con trai trưởng không thực hiện việc thờ cúng vậy hỏi các em của anh con trai trưởng có quyền giao phần di sản này cho cháu trai con trai anh thứ 2 quản lý để thờ cúng không?
Trả lời:
Tại khoản 1 Điều 645 Bộ luật dân sự quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng: Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Đối chiếu với quy định pháp luật nêu trên, nếu anh trai trưởng không thực hiện đúng di chúc là trách nhiệm thờ cúng tổ tiên thì những người thừa kế như các em của ông anh trai trưởng có thể giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người cháu của con anh thứ 2 quản lý để thờ cúng.
Câu hỏi 24: Bà A độc thân không chồng, không con cái trước khi chết bà A có lập di chúc để một phần tài sản cho bà B (là hàng xóm). Tuy nhiên khi ốm đau bà A có vay của ông H 50 triệu đồng trước khi chết chưa trả nợ. Vậy hỏi, bà B có phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ ông H 50 triệu không?
Trả lời:
Khoản 1, Khoản 3 Điều 646 quy định về di tặng:
- Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc.
- Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.
Như vậy, đối chiếu theo quy định nêu trên thì bà B không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản mà bà A để lại không đủ để thanh toán khoản nợ 50 triệu thì phần di tặng của bà B cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của bà A.
Câu hỏi 25: Trước khi chết ông A có để lại di chúc, anh B là con trưởng của ông A đã gửi cho các em mỗi người một bản sao di chúc. Vậy các em ông B muốn kiểm tra đối chiếu với bản gốc có được không?
Trả lời:
Theo quy định tại Khoản 3, 4 Điều 647 quy định về công bố di chúc:
- Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc.
- Người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc.
Như vậy, đối chiếu với quy định nêu trên thì các em ông B hoàn toàn có quyền yêu cầu anh B cho kiểm tra đối chiếu với bản gốc của di chúc.
III. CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
Câu hỏi số 26: Vợ chồng ông A bà B chết không để lại di chúc? Vậy việc chia di sản thừa kế của ông bà được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Do vợ chồng ông A bà B chết không để lại di chúc nên việc chia di sản thừa kế của ông A bà B là trường hợp thừa kế theo pháp luật
Theo quy định tại Điều 649 Bộ luật Dân sự thì Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
Điều 651 Bộ luật Dân sự quy định về hàng thừa kế, trình tự thừa kế như sau:
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Câu hỏi 27: Trong 1 vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng cả 2 cha con ông A, anh B đều thiệt mạng. Vậy cháu X là con của anh B có được hưởng di sản của ông A không?
Trả lời:
Theo Điều 652 quy định: Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
Như vậy, nếu cháu X sẽ được hưởng phần di sản mà anh B được hưởng nếu còn sống.
Câu hỏi 28: Vợ chồng anh A, chị B nhận cháu X là con nuôi, vậy vấn đề thừa kế di sản của cháu X được pháp luật quy định như thế nào?
Trả lời:
Theo Điều 653 Bộ luật Dân sự quy định về quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi: Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 (thừa kế theo pháp luật) và Điều 652 (thừa kế thế vị) của Bộ luật này.
Đối chiếu quy định của pháp luật thì vợ chồng anh A, chị B và cháu X được thừa kế di sản của nhau và được thừa kế theo quy định về thừa kế theo pháp luật và thừa kế thế vị.
Câu hỏi 29: Năm 1999, anh A và chị B kết hôn, trong thời gian chung sống với nhau anh chị đã mua được nhà và có sổ tiết kiệm 500 triệu đồng. Năm 2018 anh A, chị B thỏa thuận chia tài sản chung. Tháng 9/2019 anh A và chị B làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện giải quyết ly hôn nhưng trong quá trình đang giải quyết ly hôn thì anh A chết? Vậy chị B có được hưởng di sản của anh A không?
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 655 Bộ luật Dân sự quy định về việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung; vợ, chồng đang xin ly hôn hoặc đã kết hôn với người khác:
1. Trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
2. Trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
Đối chiếu theo quy định của pháp luật thì chị B vẫn được hưởng di sản của anh A.
IV. THANH TOÁN VÀ PHÂN CHIA DI SẢN
Câu hỏi 30: Trước khi chết ông A đã để lại di chúc chia 500m2 đất ở chia đều cho các con bao gồm 3 trai, 1 gái. Di chúc không ghi rõ là chia di sản thế nào vậy hỏi các con ông A nên làm thế nào?
Trả lời:
Theo Điều 656 quy định:
1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây:
a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
b) Cách thức phân chia di sản.
2. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.
Như vậy, các con ông A phải họp mặt để thỏa thuận theo các quy định nêu trên.
Câu hỏi 31: Ông A được anh trai tin tưởng giao trọng trách trong di chúc là người phân chia di sản cho các cháu khi ông qua đời. Vậy hỏi ông A có quyền và nghĩa vụ pháp lý gì?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 657 thì ông A có các quyền và nghĩa vụ sau:
1. Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
2. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật.
3. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận.
Câu hỏi 32: Khi được chia di sản thừa kế là mảnh đất và trên đất có ngôi nhà ông A để lại, các con của ông A ai cũng muốn có được ngôi nhà và không thể thỏa thuận được nên đã khởi kiện ra Tòa và Tòa án quyết định bán ngôi nhà để chia, việc Tòa án quyết định như vậy là đúng hay sai?
Trả lời:
Khoản 2 Điều 660 Bộ luật Dân sự quy định: Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.
Như vậy, các con của ông A không tự thỏa thuận được mà khởi kiện đến Tòa án. Tòa án quyết định bán ngôi nhà để chia là đúng quy định của pháp luật.
Câu hỏi 33: Do có mâu thuẫn giữa mẹ chồng và nàng dâu do vậy sau khi con trai ông bà A là anh B chết. Ông bà A yêu cầu con dâu X chia nhà, trên thực tế chị X thấy nếu lúc này chia nhà thì mẹ con chị gặp khó khăn vì diện tích đã chật chội nay lại chật hơn nên đề nghị Tòa án hạn chế phân chia tài sản. Vậy việc hạn chế phân chia di sản được quy định như thế nào?
Trả lời:
Điều 661 Bộ luật Dân sự quy định về hạn chế phân chia di sản như sau:
Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia.
Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm.
Như vậy, theo yêu cầu của chị X thì Tòa án có thể quyết định thời hạn chưa chia di sản là không quá 03 năm kể từ thời điểm anh A chết. Hết thời hạn 03 năm mà chị X chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của mẹ con chị thì chị có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm.
Câu hỏi 34: Sau khi ông A chết. Tài sản ông A để lại đã được chia cho các con. Anh X sau khi được Tòa án công nhận là con đẻ của ông A đã yêu cầu các con ông A phải chia cho mình một phần tài sản của ông A để lại. Vậy yêu cầu của anh X có được chấp nhận không?
Trả lời:
Khoản 1 Điều 662 Bộ luật Dân sự có quy định về phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới như sau: Trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Như vậy, anh X yêu cầu các con của ông A chia lại 1 phần di sản thừa kế của ông A cho mình là có căn cứ pháp luật.